Friday, May 6, 2011

HÀNH QUÂN BIỆT KÍCH RAPID FIRE


HÀNH QUÂN BIỆT KÍCH RAPID FIRE
David C. Spencer
 Lời nói đầu: Hai toán biệt kích bị hỏa lực địch đàn áp nhưng chỉ cứu được một toán. Một quyết định khó khăn phải làm.
         Minh Thạnh là làng nhỏ bao bọc trong một khu rừng sao su bát ngát, từng hàng, từng hàng cây cao su bao quanh. Gần đó có một trại Lực Lượng Đặc Biệt do một toán A trấn đóng, được xây dựng dưới những rặng cây cao. Về hướng bắc và hướng đông căn cứ là những cánh rừng cao su mênh mông. Về hướng tây và hướng nam, có những khoảng đất trống trải với cỏ tranh và những bụi cây rộng lớn.
        Khu đồng trống, cỏ tranh rất dễ bị lầm lẫn. Trông có vẻ phẳng nhưng có chỗ cỏ tranh chỉ cao hơn đầu gối, chỗ khác lại cao hơn đầu người. Những bụi cây lớn, thực ra là những khoảnh vườn trồng cây và bụi rậm.
        Những cánh đồng như thế có thể che dấu một đạo quân. Trong mùa hè và mùa thu năm 1967, có tin đồn và tin tình báo cho biết trung đoàn 271 VC đang hiện diện trong khu vực xung quanh làng Minh Thạnh. Giữa tháng Mười, 1967, tiểu đoàn 2, trung đoàn 28, sư đoàn 1 BB Hoa Kỳ mở cuộc hành quân tảo thanh, và họ xác nhận nguồn tin tình báo là đúng (sự hiện diện của trung đoàn 271 VC). Tiếp theo các đơn vị Hoa Kỳ mở hành quân truy kích đám quân VC ra khỏi vùng trách nhiệm. Rồi thì một trận đánh lớn xẩy ra, có thể đơn vị Hoa Kỳ bị rơi vào ổ phục kích, các đại đội tác chiến cùng với ban chỉ huy tiểu đoàn 2, đại đội chỉ huy công vụ bị tổn thất nặng.
        Trong số những quân nhân tử trận có trung tá Terry de la Mesa Allen, ông ta là con trai của vị tư lệnh sư đoàn 1 BB Hoa Kỳ trong trận thế chiến thứ hai (The Big Red 1), và thiếu tá Donald W. Helleder, tốt nghiệp trường võ bị West Point, đã được chọn trong đội tuyển football quốc gia (to con), và nhiều thanh niên trẻ Hoa Kỳ.
        Tiếng vang của trận đánh vẫn còn chấn động, mặc dầu trung đoàn 271 VC đã rút về nơi ẩn náu. Những toán viễn thám của LLĐB và sư đoàn 1 BB/HK lùng kiếm trung đoàn địch không ra. Dường như chúng biến mất trong không gian.
        Một nhiệm vụ thám sát đặc biệt được giao phó cho B-36 LLĐB, qua một loạt hành quân Rapid Fire bắt đầu từ tháng tám năm 1967 với Rapid Fire I (1) kéo dài đến Rapid Fire IX (9) trong tháng Năm 1968.
        Từ lúc ban đầu hành quân Rapid Fire, toán biệt kích chúng tôi thuộc B-36 LLĐB gồm có: tôi, binh nhất Patrick Wesson, binh nhất William “Billy” Miller, và ba người lính đánh thuê người Miên, Đại Minh, Song (“Big Cowboy”), và “Old Man”. Trong tháng Mười, chúng tôi được lệnh thám sát khu vực Minh Thạnh trong hành quân Rapid Fire II. Hai toán biệt kích sẽ xâm nhập cùng lúc, toán chúng tôi được thả xuống gần ngôi làng. Toán biệt kích của Trung sĩ Wallace “Walt” Handwerk và toán của tôi, sẽ vào vùng địch để kiểm chứng sự “đánh hơi”. Việc này do phi cơ lấy trong không khí để tìm hóa chất methane thải ra từ những nguồn hữu cơ: người, vật, thảo mộc, dù sống hay đã chết. Mặc dầu với sự tiến triển của khoa học, vẫn cần có người ở dưới đất, vào vùng kiểm chứng.
        Nhận được lệnh hành quân, chúng tôi kiểm soát lại ba lô, dụng cụ đem theo trước khi lên đường xâm nhập vào khu vực xung quanh làng Minh Thạnh. Chúng tôi cẩn thận xem lại những dụng cụ quan trọng như điạ bàn, bản đồ, gương cấp cứu để chỉ điểm cho máy bay.
        Tất cả đơn vị tham dự hành quân, trong đó có toán biệt kích chúng tôi, được phi cơ vận tải C-123 đưa đến trại LLĐB Minh Thạnh vào sáng hôm sau. Trong lúc các dân sự chiến đấu cùng với các cố vấn Mũ Xanh của họ lo thiết lập căn cứ hành quân, dựng lều, căng hàng rào kẽm gai, đào công sự phòng thủ, hầm vệ sinh, v.v... hai toán biệt kích A-361, A-362 lên đường thám sát.
        Toán A-361 dưới quyền toán trưởng Pat “Hulk” Martin khám phá ra một binh trạm của VC và bị địch truy kích. Toán biệt kích chạy đến một hố bom làm chỗ chống cự với địch cho đến khi trực thăng võ trang cùng với trực thăng cấp cứu đến, dùng dây cấp cứu McGuire câu về căn cứ. Toán A-362 của Damien Kowaleski xâm nhập mà không bị địch phát giác. Toán biệt kích tìm thấy một binh trạm cỡ lớn của địch có nhiều đường mòn ra vào. Nhiều đường mòn nằm gần nhau, không thể nằm lại để dò thám, nên trưởng toán Kowaleski xin trực thăng đến đem về.
        Toán biệt kích của tôi cũng thuộc A-362, biệt danh “Alice”, lên đường xâm nhập lúc 1 giờ chiều ngày hôm sau. Cấp chỉ huy đã kẻ một lằn ranh giới, toán của tôi có nhiệm vụ thám sát khu vực từ lằn ranh lên hướng bắc, toán biệt kích A-361 của Handwerk sẽ dò thám về hướng nam.
        Tôi ra lệnh cho toán viên di chuyển chậm, cẩn thận, dự trù sẽ vào đến khu vực “đánh hơi” ngày hôm sau để lục soát, kiểm chứng. Sau khi xuống bãi đáp an toàn và báo cho trực thăng dấu hiệu “OK” để họ bay về, chúng tôi di chuyển chừng năm phút đã gặp một đường mòn. Con đường mòn lớn hơn ba bộ (feet), cỏ vẫn chưa chết hẳn, chứng tỏ nhiều người mới di chuyển trên đường vào khoảng vài giờ đồng hồ. Tôi liên lạc với máy bay thám thính đang bao vùng để xin xác nhận chính xác điểm đứng.
        Điạ thế khu vực rất khó do thám, Cỏ tranh không đủ rậm để che chở toán biệt kích và cũng khó quan sát, chỉ khi nào đối tượng đã đến thật gần mới trông rõ, lúc đó đã quá muộn. Chúng tôi di chuyển ra nơi khác, được khoảng chừng năm mươi thước lại gặp một đường mòn khác cũng rộng rãi, vừa có người đi qua như con đường trước. Chúng tôi tạm dừng, không phải để dò thám mà để canh chừng có địch quân theo dõi. Rồi một đường mòn khác... đường khác. Chúng tôi tìm thấy tất cả bẩy con đường mòn trong khu vực thám sát.
        Cuối cùng, toán biệt kích đến một khu rừng rập lúc trời sắp tối. Chúng tôi tìm chỗ nghỉ qua đêm, gần con đường mòn để dò thám. Tôi lấy cần antena tự chế để liên lạc với đài tiếp vận trên núi Bà Đen, chợt hai tên VC xuất hiện trên con đường mòn đi ngang qua chỗ toán biệt kích đang ẩn nấp. Họ không đi song song để nói chuyện, tên đi trước thấp hơn, mặc quần short, áo mầu sậm, đội trên đầu cái nón đã tả tơi không còn hình dáng, vai đeo khẩu súng AK-47. Tên đi sau cao hơn, mặc quần short mầu sậm, áo xám, cầm khẩu Mauser 98K.
        Hai tên VC đi từ hướng tây nam lên, họ đi đứng tự nhiên trong “giang sơn” của họ. Tên đi sau bỗng dừng lại nhìn về phiá bụi cây toán biệt kích đang núp. Chúng tôi có thể bắn gục hết cả hai, nhưng nhiệm vụ của toán biệt kích là dò thám, tránh đụng độ. Tôi báo lên máy bay quan sát Smokey.
-          Chúng tôi bị hai tên VC trông thấy.
-          Anh có chắc chắn không?
-          Hai bên chạm trán nhau gần lắm, tôi có thể nhổ nước miếng trúng nó...
-          Vậy thì các anh nên rút
        Chiếc máy bay quan sát cho chúng tôi tọa độ một bãi đáp gần đó, đúng lúc tôi  nghe có nhiều tiếng người nói lớn cách chỗ trú ẩn khoảng năm mươi thước, rồi tiếng bình bịch, sau này tôi mới nhận định ra tiếng địch quân bỏ ba lô xuống đất để giao tranh.
-          Nhiều tiếng người nói cách chỗ tôi chừng năm mươi thước về hướng bắc.
-          Chạy, đừng bước chậm chạp.
        Tôi đeo ba lô lên vai, chỉ tay về hướng tây nam nơi có bãi đáp, rồi nói với toán viên.
-          Nhanh lên.
        Tôi dẫn đầu, mọi người chạy theo sau. Và có tiếng địch quân đuổi theo phiá sau. Tôi ra lệnh cho mọi người tiếp tục chạy, còn tôi đứng lại gài quả mìn Claymore, rôi chạy theo sau. Trong khi đang kéo sợi dây điện để bấm quả mìn, người lính Miên tên Đại Minh vẫn còn đứng chờ tôi, quạt một băng đạn vào một bụi cây.
        Tôi vội vàng xách quả mìn chạy theo Đại Minh. Ra gần đến khoảng đất trống trải, tôi thấy toán biệt kích đang bố trí sau hàng cây sát bãi đáp trực thăng. “Old Man” la lên một câu tiếng Miên, đồng thời nổ súng bắn về phiá đằng sau tôi và Đại Minh. Trông thấy gần đó có một ụ đất nhô lên cao, tôi la lớn cho mọi người biết rồi cùng Đại Minh chạy nhanh lại, nhẩy ra đằng sau, đúng lúc súng của địch nổ vang dội khu rừng.
        Billy Miller cùng với “Old Man” bắn hàng loạt về hướng đông bãi đáp, Pat Wesson và “Big Cowboy” thủ phiá bắc. Quan sát về hướng tây, thấy có bóng dáng người, tôi quạt khẩu M-16 cho đến khi hết đạn, rồi cho một băng đạn mới vào. Tôi gọi máy bay quan sát Smokey.
-          Chúng tôi đã ra đến bãi đáp. Gọi trực thăng võ trang (gunships) và chiếc “slick” để bốc bọn tôi.
-          Tôi thấy các bạn tác xạ vũ khí.
-          Chúng tôi bị bắn, nên trả đũa.
-          Có bị tổn thất gì không?
-          Không.
-          Tôi sẽ gọi trực thăng võ trang đến.
-          Bạn có cần khói mầu không? (để đánh dấu mục tiêu)
-          Không.
        Tôi nghe tiếng máy bay thám thính bay đi rồi “phụp”, một qủa đạn khói mầu trắng nổ trên đầu những rặng cây. Tôi nghe tiếng chiếc máy bay quan sát điều động hai chiếc trực thăng Cobra oanh kích mục tiêu.
-          Roger. Đánh dọc theo hàng cây từ đông sang tây bằng đại liên thôi. Quân bạn ở sát hàng cây ngay mô đất trong khoảng đất trống.
        Hai chiếc Cobras bay xà xuống bắn đại liên, chúng tôi ở dưới nghe điếc tai và ngửi thấy mùi khét của thuốc súng. Chiếc máy bay quan sát, trấn an báo cho biết.
-          Chiếc “slick” đang trên đường đến đón các bạn.
        Chúng tôi nghe tiếng trực thăng đang bay đến, mọi người đều thở ra nhẹ nhõm, mỉm cưới. Chợt có tiếng súng của địch bắn lên ngay trước mũi chiếc trực thăng chở quân. Viên phi công vội vàng đổi hướng 90 độ bay ra khỏi khu vực nguy hiểm. Pat, Đại Minh và tôi lập tức bắn vào những bụi cây nghi ngờ địch đang nấp bắn lên trực thăng.
        Qua máy truyền tin, tôi được biết anh chàng phi công trực thăng “lạnh cẳng” than phiền với máy bay quan sát rằng, bãi đáp không được an ninh, và nhỏ hẹp có một cây cao ở giữa. Tôi cho là đúng phần nào, tôi nhìn thấy cây cao đó nhưng vẫn dư sức đáp. Lúc đó địch quân bắn vào ụ đất nơi đám biệt kích đang nấp. Tôi gọi máy bay thám thính.
-          Smokey, Smokey. Đây Alice gọi.
-          Nói đi Alice.
-          Có chuyện gì với chiếc “Slick”?
-          Anh ta “lạnh cẳng” vì bị bắn từ dưới đất. Tôi sẽ cho gunships làm bụi tung lên dọc theo hàng cây rồi bảo chiếc “Slick” quay trở lại.
        Chuyện này sẽ không bao giờ có. Anh chàng phi công chết nhát tìm đủ cớ để tránh né không xuống bãi đáp. Mặt trời từ từ khuất bóng, chúng tôi biết rằng nguy hiểm sẽ đến vì cấp cứu ban đêm khó khăn hơn nhiều.
        Trong khi đó toán biệt kích của Handwerk cũng lâm vào tình trạng nguy kịch. Anh ta đã báo cáo có dấu hiệu hoạt động của địch bên hông lộ trình di chuyển của toán, rồi ở đằng trước. Handwerk yêu cầu cho toán triệt xuất. Sau đó toán biệt kích Handwerk di chuyển đến một bãi đất trống chờ trực thăng đến “bốc”.
        Phải có những quyết định nhanh chóng. Địch quân gia tăng áp lực xung quanh bãi đáp của chúng tôi. Trực thăng võ trang Cobra đã phải đánh mấy tours để làm giảm áp lực của địch. Nếu không có mấy chiếc này, địch sẽ tràn ngập vị trí của toán biệt kích dễ dàng.
        Lúc đó tôi nghe được giọng nói của viên phi công trên chiếc máy bay thám thính nói với trưởng toán biệt kích Handwerk. Mà sau này nghĩ lại chưa chắc tôi dám quyết định. Anh ta cho Handwerk biết tình trạng của toán tôi. Trưởng toán biệt kích Handwerk bình tĩnh trả lời.
-          Tôi không cần cấp cứu. Cứ lo cho toán kia. Chúng tôi tự lo liệu lấy, lẩn tránh địch quân. OK? Chúc may mắn.
-          Tôi hiểu.
        Tôi đưa cho Pat cái đèn pin chiếu lên trời để cho máy bay nhận rõ vị trí toán biệt kích. Trong khi máy bay thám thính bao vùng tiếp tục điều động các phi tuần trực thăng võ trang Cobra lên đánh giải vây cứu toán biệt kích, đại úy Swain, quyền chỉ huy B-36 LLĐB cũng ngồi trên một chiếc trực thăng khác bay lên. Ông ta hỏi viên phi công lái máy bay thám thính tình trạng của toán biệt kích.
-          Cũng như một trận Little Bighorn nhỏ (trận này lữ đoàn 7 Kỵ Binh Hoa Kỳ bị người Da Đỏ tiêu diệt).
-          Xin nói lại cho rõ.  (Đại úy Swain)
-          Bọn VC đang bao vây bãi đáp cũng như người Da Đỏ bao vây Tướng Custer.
        Đại úy Swain nhanh chóng liên lạc với thiếu tá Hatfield, chỉ huy đại đội trực thăng (Lục quân Hoa Kỳ có đơn vị trực thăng) cơ hữu.
-          Big Daddy. Đây là Marauder (biệt danh của Đ/úy Swain, tên một đơn vị BĐQ/HK trong trận đệ nhị thế chiến)
-          Đây là Big Daddy.
-          Ông phải ra lệnh cho phi công trực thăng của ông “vào”, chúng tôi không còn thời gian.
-          Không được. Tôi sẽ không để cho phi công của tôi vào.
-          Nếu vậy tôi sẽ đưa chiếc C&C (trực thăng chỉ huy, ông ta đang bay) này “vào”.
        Đại úy LLĐB Swain, nói là làm... không nói “lung tung”. Thiếu tá Hatfield vội lên tiếng.
-          Không được. Làm chuyện gì cũng phải đúng thủ tục.
-          Tôi không thể để mất binh sĩ của tôi.
        Viên phi công “gà chết” chắc cũng nghe được lời đối thoại trên hệ thống truyền tin. Anh ta yêu cầu toán biệt kích di chuyển đến một bãi đáp khác. Tôi nói Pat tiếp tục chiếu đèn pin lên trời để các phi cơ nhận ra vị trí quân bạn. Trong toán biệt kích Pat (Patrick) Wesson là người lúc nào cũng vui vẻ lạc quan, tin cậy được. Miller có vẻ lo sợ, lên tiếng hỏi “Tôi sẽ chết ở đây?” Nghĩ đến toán của Handwerk, tôi băn khoăn không biết số phận của họ ra sao. Tôi trấn an anh ta.
-          Anh sẽ thoát. Tất cả chúng ta sẽ được cứu.
        Mấy người biệt kích Miên, không hiểu, nhưng thấy nét mặt vui của Miller, họ cũng lên tinh thần. Đại Minh nói với tôi “Trực Thăng”. Trong khi đó, hai trung sĩ LLĐB “chứng tỏ” tình chiến hữu, lo lắng cho toán biệt kích ở dưới. Trên chiếc trực thăng chỉ huy (C&C), trung sĩ Paul Grillo, y tá nhưng rất can đảm, gốc rễ từ bờ biển miền đông Ý Đại Lợi, rút khẩu Colt-45 ra chỉa vào đầu viên phi công. (Vào bốc toán biệt kích! Nếu không chúng ta cùng chết!).
        Trong trung tâm hành quân, trung sĩ nhất Ernie Snyder tập họp một đơn vị đi tiếp cứu, trang bị đại liên M-60, M-79 và M-16, sẵn sàng lên đường. Đúng lúc đó, trên máy truyền tin thiếu tá Hatfield nhượng bộ, ông ta nói với đại úy LLĐB Swain.
-          Thôi được, để đích thân tôi vào.
-          Cám ơn và chúc may mắn.  (Đại úy Swain)
        Thiếu tá Hatfield gọi toán biệt kích.
-          Tôi đang ở hướng nam của bạn. Tôi trông thấy đèn của bạn. Tôi tắt-mở đèn bay, bạn nhìn thấy cho biết.
        Tiếng trực thăng nghe rõ dần rồi dèn dưói bụng trực thăng tỏa ánh sáng làm lóe mắt mọi người, cả VC. Chúng tôi nhanh nhẹn leo lên trực thăng. Tôi la lớn cho nhân viên phi hành.
-          Dọt lẹ!
-          Mọi người lên hết chưa?
-          Đủ cả rồi. Dọt lẹ đi!
        Hôm sau chúng tôi được tin mừng, toán biệt kích của Handwerk cũng được bốc về an toàn.
 Theo tài liệu: David C. Spencer “Rapid Fire Recon...”, Vietnam Magazine, June 1997, pages: 46-52.
Dallas, TX.
vđh

No comments:

Post a Comment